Trong thực tế dạy học ngữ văn nhiều năm, khi đến phần giảng từ khó ở trong phần chú thích, nhiều lúc tôi cảm thấy áy náy với học trò. Bởi tôi biết rằng phần giảng của mình chỉ như "cưỡi ngựa xem hoa" và học trò hầu như ít em hiểu được. Tôi cố gắng tìm kiếm nhiều tài liệu liên quan đến bài học để bổ sung thêm kiến thức cho mình, qua đó truyền tải đến học trò. May mắn thay, cuốn sách "Nghiên cứu cách chú thích trong sách giáo khoa ngữ văn trung học", NXB Đà Nẵng - của TS Bùi Trọng Ngoãn đã giúp tôi hóa giải phần nào những băn khoăn ấy.
Có thể xem đây vừa là một công trình khoa học vừa là một cuốn tài liệu tham khảo đầy bổ ích và lý thú. Người đọc dễ dàng nhận ra sự kỳ công và nghiêm túc của tác giả. Để "xác quyết" (chữ của TS Bùi Bích Hạnh) khái niệm "chú thích" thôi, tác giả đã tham khảo và trích dẫn hơn 10 cuốn sách, đồng thời dành ra hơn 30 trang để diễn giải một cách kỹ càng, thấu đáo. Bây giờ, người đọc đã có thể hiểu và phân biệt được những khái niệm mà nhiều người còn rất mơ hồ như: chú, chú thích, chú giải, bị chú, kê...
Trong chương 2, tác giả đã dành gần 80 trang để nghiên cứu về cách chú thích trong sách giáo khoa hiện hành. Chương cuối cùng là những đề xuất về việc chú thích trong sách giáo khoa ngữ văn trung học. Tuy tác giả chỉ đề xuất chú thích cho 7 bài học: "Hịch tướng sĩ" (Trần Quốc Tuấn), "Phú sông Bạch Đằng" (Trương Hán Siêu), "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" (Nguyễn Đình Chiểu), "Trao duyên" (trích "Truyện Kiều" - Nguyễn Du), "Hạnh phúc của một tang gia" (Vũ Trọng Phụng), "Vợ nhặt" (Kim Lân), "Đất nước" (trích "Mặt đường khát vọng" - Nguyễn Khoa Điềm) nhưng người đọc có thể thấy được khối lượng tri thức đồ sộ. Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ văn xuôi đến thơ trữ tình, tất cả những từ cần chú thích và mang tín hiệu thẩm mỹ đều được tác giả chú thích giải nghĩa một cách chân xác và có trách nhiệm.
Xin lấy ra đây một số ví dụ: Từ "con đỏ" trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc", sách giáo khoa Ngữ văn 11 nâng cao chỉ chú thích "con đỏ": ở đây chỉ nhân dân (trang 33) mà không chú cơ chế chuyển nghĩa của từ. Còn trong cuốn sách của TS Bùi Trọng Ngoãn, tác giả chú thích: con đỏ: sách cũ thường gộp 4 tiếng "dân đen con đỏ". Dân đen (lê dân) là dân không có mũ (quan), tóc để trần, tức là thường dân. Con đỏ tức là hài nhi chưa có khả năng tự vệ, nên con đỏ cũng được dùng để ẩn dụ về nhân dân (trang 214). Có hiểu cặn kẽ nghĩa của từ "con đỏ" như vậy, học sinh mới có thể thấu hiểu được tình cảnh bi thương của nhân dân ta trong cơn binh biến loạn lạc. Hoặc như từ "mọc sừng" trong bài "Hạnh phúc của một tang gia" được tác giả chú rất rõ ràng: "Mọc sừng: Tiếng lóng: những người chồng có vợ đi theo người khác không khác gì bị vợ và tình nhân của vợ xem như các con thú ăn cỏ, đầu có sừng, vóc lớn nhưng đần độn" (trang 226). Bây giờ, người đọc đã có thể thấy rõ được sự ngu si đến mức đần độn của ông Phán "mọc sừng". Hay như câu thơ "Gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" trong bài "Đất nước" được tác giả giải nghĩa một cách cụ thể ở trang 238: "Vì cuộc mưu sinh, phải tìm đất mới khai canh lập nghiệp nhưng cha ông xưa vẫn thường dùng tên làng cũ cho quê mới như một cách giữ gìn cội nguồn (ví dụ tên làng Hải Châu ở Đà Nẵng là tên làng Hải Châu ở Thanh Hóa)". Còn có rất nhiều ví dụ như thế nữa mà người đọc có thể tự mình chiêm nghiệm được thông qua cuốn sách.
D. Diderot đã từng nói: "Có 2 cách làm khoa học, một là làm tăng thêm kho tri thức nhân loại bằng những phát hiện mới và những người này được vinh dự mang danh hiệu nhà phát minh; hai là gắn kết, sắp xếp những phát hiện mới để nhiều người được tiếp cận và mỗi người theo năng lực của mình tham gia làm rạng rỡ thời đại mình". Thiết nghĩ, tác giả Bùi Trọng Ngoãn đã làm được cả hai điều ấy.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn